PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text 1727258781-36_Luận cứ bảo vệ tranh chấp QSH nhà.docx

LUẬN CỨ BẢO VỆ (V/v: Bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho nguyên đơn trong vụ tranh chấp quyền sở hữu nhà tại phiên tòa sơ thẩm) - Kính thưa Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân Quận B! - Kính thưa vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận B! - Kính thưa các vị đại diện Ủy Ban nhân dân tỉnh B và tỉnh C! Tôi, Luật sư T.V.P, thành viên Công ty Luật hợp danh PĐ, thuộc Đoàn Luật sư TP. H là người bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho nguyên đơn ông D.V.B trong việc tranh chấp với bị đơn ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH C và ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH B về quyền sở hữu/ giá trị căn nhà số M đường Đ, phường phường H1, Quận B, TP. H2, do TAND Quận B thụ lý xét xử lại. Với mong muốn góp phần giải quyết vụ việc đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của công dân, qua nghiên cứu hồ sơ, tìm hiểu các nguồn tài liệu và đối chiếu các quy định pháp luật, chúng tôi trân trọng trình bày trước Hội đồng xét xử nội dung Luận cứ sau đây: Nguyên trong lúc ông D.V.B đang phải chấp hành hình phạt tù chung thân theo Bản án hình sự sơ-chung thẩm số 01/HS/SCT ngày 22/4/1989 của Tòa Hình sự TANDTC (vụ án C), Ủy Ban nhân dân tỉnh M đã chỉ đạo các ngành chức năng trong tỉnh phối hợp với Công ty C tiến hành bán căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2, là tài sản của ông D.V.B, không bị kê biên xử lý trong vụ án hình sự. Sau khi được đặc xá ra tù vào tháng 4/1995 (án tù chung thân nhưng chỉ thụ hình có 7 năm 4 tháng), ông D.V.B bắt đầu khiếu nại đòi lại căn nhà theo thủ tục khiếu kiện hành chính và sau đó khởi kiện dân sự Ủy Ban nhân dân tỉnh C (bị đơn) và Ủy Ban nhân dân tỉnh B (người có quyền L và nghĩa vụ liên quan) đến Tòa án để đòi giá trị bán ra của căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2. Tại Bản án số 97/DSST-NP ngày 24/11/2000 Tòa án nhân dân Quận B tuyên xử: “Buộc Ủy Ban nhân dân tỉnh C và Ủy Ban nhân dân tỉnh B liên đới hoàn trả lại cho ông D.V.B số tiền bán căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, thuộc sở hữu của ông D.V.B là 256,47 lượng vàng, trong đó tỉ lệ theo phần là mỗi Ủy Ban nhân
dân tỉnh phải hoàn trả lại ½ số vàng nêu trên là 128,235 lượng vàng 24K. Thời hạn giao vàng là 01 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật…”. Tại Bản án số 1103/DSPT ngày 12/6/2001 Tòa án nhân dân TP. H2 tuyên xử: “Giữ y án sơ thẩm. Căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 thuộc quyền sở hữu thực thụ của ông D.V.B. Buộc Ủy Ban nhân dân tỉnh C và Ủy Ban nhân dân tỉnh B liên đới hoàn trả lại cho ông D.V.B số tiền bán căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2, số tiền là 256,47 lượng vàng 24K (Hai trăm năm mươi sáu lượng, bốn chỉ bảy phân vàng 24K). Trong đó tỉ lệ theo phần mỗi Ủy Ban nhân dân tỉnh phải hoàn trả lại ½ số vàng nêu trên là 128,235 lượng vàng 24K (Một trăm hai mươi tám lượng, hai chỉ, ba phần, năm ly vàng 24K). Đang lúc ông D.V.B được Chi cục thi hành án dân sự thị xã B tổ chức thi hành án, giao trả số vàng bán căn nhà, thì theo đề nghị của Ủy Ban nhân dân tỉnh C, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao ra Quyết định số 36/QĐ-VKSTC-KSXXDS ngày 25/4/2003 kháng nghị Bản án phúc thẩm số 1103/DSPT ngày 12/6/2001 của Tòa án nhân dân TP. H2 theo thủ tục giám đốc thẩm, sau đó Tòa án nhân dân tối cao ra Quyết định giám đốc thẩm số 91/GĐT-DS ngày 22/5/2003 với nội dung: “Hủy bản án phúc thẩm số 1103/DSPT ngày 12/6/2001 của Tòa án nhân dân TP. H2 đã xét xử vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà giữa ông D.V.B với Ủy Ban nhân dân tỉnh C do các ông V.K.Đ, ông H.H.T, ông H.T.L1 cùng đại diện. Giao hồ sơ vụ án về Tòa án nhân dân TP. H2 điều tra xét xử theo thủ tục phúc thẩm”. Trong thời gian Tòa án nhân dân TP. H2 thụ lý giải quyết lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm, do nguyên đơn ông D.V.B “vắng mặt nhiều lần” khi được triệu tập (thực chất do ông D.V.B đi làm ăn bên Lào không kịp có mặt), Tòa án nhân dân TP. H2 ra Quyết định số 2416/DSPT ngày 11/11/2004 đình chỉ giải quyết vụ án (!). Ông D.V.B khiếu nại sự việc lên Tòa án nhân dân tối cao và tại Công văn số 1043a/TANDTC-DS ngày 27/11/2009 “V/v trả lời đơn khiếu nại”, Tòa án nhân dân tối cao đã xác định: việc Tòa án nhân dân TP. H2 ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án không làm mất đi quyền tố tụng của ông D.V.B và hướng dẫn ông B “Theo quy định thì ông có quyền làm đơn khởi kiện lại gửi đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết nếu ông vẫn có yêu cầu”. Luật sư TVB và gia đình ông B trong bệnh viện Luật sư TVB và gia đình ông D.V.B trong bệnh viện
Theo nội dung Đơn khởi kiện đề ngày 18/5/2011 của ông D.V.B, căn nhà tại địa chỉ số M đường Đ, phường H1, Quận B, do ông B là người đứng ra hỏi mua, trả tiền cho ông L.X.V1 và bà N.T.K từ tháng 3/1984 và nhờ em dâu là L.T.H (vợ của em trai D.T.L2) đứng tên trên giấy tờ mua bán và chủ quyền nhà. Sau đó, ông D.V.B có cho Xí nghiệp khai thác vận chuyển thuộc Liên hiệp Xí nghiệp Gỗ M.H (tiền thân của Công ty C) mượn căn nhà này để làm trụ sở, thông qua “Biên bản thỏa thuận mượn nhà” số M ký ngày 24/9/1985 giữa bên cho mượn là bà L.T.H với đại diện bên mượn gồm có ông T.C.M (Giám đốc Xí nghiệp) và bà T.T.T2 (Kế toán trưởng Xí nghiệp). Đây là căn nhà không bị kê biên, không bị xử lý trong vụ án C. Khi tiến hành xử lý tài sản của Công ty C, Giám đốc Công ty C đương nhiệm lúc bấy giờ là ông T.V.T3 đã ký các hợp đồng bán căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 cho một số cá nhân gồm ông L.N.D1, bà N.T.D2, bà N.T.C, do ông L.N.D1 làm đại diện người mua. Thể hiện qua: - Hợp đồng kinh tế số 19/HĐ ký ngày 02/11/1992, trị giá 962.850.000đ - Hợp đồng bổ sung số 20/HĐ ngày 28/11/1992, trị giá 170.747.500đ Tổng cộng: 1.133.597.500 đồng, tương đương giá vàng 9999 (bình quân giá mua vào, bán ra của thời điểm bán tài sản là 442.000đ/chỉ) là 256,47 lượng vàng. (Tài liệu chứng minh: Biên bản thanh lý hợp đồng ngày 05/12/1992 giữa đại diện bên bán gồm có ông T.V.T3 - Giám đốc, ông H.X.S1 - Kế toán trưởng với đại diện bên mua là ông L.N.D1; các Phiếu thu số 02 ngày 10/11/1992, Phiếu thu số 02 ngày 28/11/1992 và Phiếu thu số 03/92 ngày 05/12/1992 của Công ty C có trong hồ sơ vụ án quý Tòa đang xét xử). Tại Đơn khởi kiện, ông D.V.B yêu cầu Ủy Ban nhân dân tỉnh C và Ủy Ban nhân dân tỉnh B liên đới trách nhiệm giao trả cho ông giá trị căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 được tính ở thời điểm bán nhà năm 1992 với số tiền quy thành vàng là 256,47 lượng vàng. Nguồn tài liệu, chứng cứ để chứng minh căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 thuộc quyền sở hữu của ông D.V.B, gồm: 1. Lời khai của ông D.T.L2 và bà L.T.H, người đứng tên mua căn nhà 10 đường Đ, phường H1, Quận B, qua “Văn tự bán nhà” lập ngày 14/3/1984 với bà N.T.K và ông L.X.V1, được Ủy Ban nhân dân phường H1 - Quận B chứng nhận vào ngày 24/3/1984 và “Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa” do Sở Quản lý Nhà đất
và công trình công cộng TP. H2 cấp ngày 25/4/1984. Ông L, bà H xác nhận mình chỉ đứng tên giúp ông D.V.B và làm theo yêu cầu của ông D.V.B. 2. Lời khai của bà N.T.K và ông L.X.V1 là nguyên chủ căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, xác định mọi giao dịch mua bán, nhận tiền đều từ ông D.V.B. 3. Lời khai của ông N.Q.S2, nguyên Giám đốc C. - Tại Tờ xác nhận đề ngày 18/9/1998, ông N.Q.S2 xác nhận: “Ông D.V.B có cho Liên hiệp Gỗ M.H, sau này là Công ty C, mượn căn nhà số M Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 từ tháng 9/1985, để làm trụ sở. Tôi xác nhận Công ty C không hề mua nhà của ông D.V.B mà chỉ mượn nhà. Do đó, việc Công ty C sau này (thời kỳ hậu C) lấy nhà của ông D.V.B bán là hoàn toàn bất hợp pháp”. - Tại Bản tự khai ngày 25/7/2012, ông N.Q.S2 tiếp tục khẳng định: “Ông D.V.B có cho Liên hiệp Gỗ C sau này là Công ty C mượn căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2, từ tháng 9/1985 để làm trụ sở. Tôi xác nhận Công ty C không hề mua nhà của ông D.V.B mà chỉ mượn nhà. Do đó, việc Công ty C sau này (thời kỳ hậu C) lấy nhà của ông D.V.B bán là hoàn toàn bất hợp pháp. Tôi xác nhận này với tất cả trách nhiệm và lương tâm của một công dân”. 4. Lời khai của ông Đ.T.V2, nguyên Bí thư Tỉnh ủy M. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 26/7/2012, ông Đ.T.V2 khai: “Tôi nguyên là Bí thư Tỉnh ủy M từ năm 1982 đến năm 1989. Với cương vị là người quản lý chung toàn bộ tỉnh M và quản lý chung đối với Công ty C, tôi được biết căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, là tài sản của ông D.V.B. Căn nhà này được ông B tạo dựng trước khi thành lập Công ty C. Công ty C chỉ mượn căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B làm trụ sở Công ty từ tháng 9/1985. Khi còn hoạt động, Công ty C đã mua mang về cho tỉnh M hơn 40.0003 gỗ để xây dựng cho tỉnh M…”. Trong khi đó, phía bị đơn khẳng định căn nhà số M đường Đ, phường H1, Quận B, TP. H2 thuộc tài sản của Công ty C, nói cụ thể hơn là ông D.V.B đã bán căn nhà này cho Công ty C hoặc nói một cách khác là ông D.V.B dùng tiền của Công ty C để mua căn nhà này (!!!???).

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.