Content text ĐỀ SỐ 4.docx
ĐỀ SỐ 4 I. PHẦN ĐỌC HIỂU (4,0 ĐIỂM) Câu 1 (0,5 điểm). Nhân vật Sài và Thêm trong câu chuyện được miêu tả trong hoàn cảnh hai người đi vào rừng tìm rau, gặp trời mưa lớn, sau đó Thêm bị trúng bom, Sài cõng Thêm tìm về đơn vị, trên đường về Thêm đã hy sinh. Câu 2 (0,5 điểm). Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng việc tái tạo ngôn ngữ nói của nhân vật Thêm hòa vào lời kể của người kể chuyện trong những câu văn: Chỗ nào có rau, con suối ở dưới chân chảy đi đâu, chỗ nào có nấm mới? Anh có thích uống mật ong không? Thôi để đến mai, lúc nào uống hết nước có bỉ đông đựng mật ong ta mới “dứt điểm”. Câu 3 (1,0 điểm). Học sinh nêu và làm rõ được nhận xét của nhân vật Sài được thể hiện trong văn bản: (1) Dũng cảm: cố gắng vượt cơn sốt ác tính để bám đơn vị (Đã ba ngày lên cơn sốt li bì bỏ cơm, đến chiều anh vác cuốn võng chống gậy ra đi), sau khi ra viện, được điều làm trung đội trưởng thuộc đại đội công binh giữ ngầm Ông Thao; về đến đơn vị anh ra mặt đường ngay. (2) Yêu thương gắn bó sâu sắc với đồng đội: Tâm trạng hoảng hốt, choáng váng khi phát hiện không thấy Thêm (Sài sờ lên lưng. Không có Thêm. Quờ ra xung quanh cũng không thấy. Mồ hôi anh toả ra, hai chân muốn khuỵu xuống; Định cất tiếng gọi, lưỡi ríu lại cố họng nghẹn khô); cảm giác mừng rỡ rồi bàng hoàng, sợ hãi khi phát hiện ra bạn nằm sấp ở bờ suối (anh run bắn lên; Anh muốn kêu lên. Không kêu nổi... không ra nước mắt); nỗi căm giận bản thân, tình đồng đội sâu sắc đã tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất không ngờ cho nhân vật Sài (Nỗi căm giận trào lên...; Bất chấp cả sợ hãi, anh xốc bạn lên cổ cõng Thêm lội theo bờ suối; luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ),… Câu 4 (1,0 điểm). Đoạn trích có nhiều chi tiết có thể đem lại ấn tượng sâu đậm với người đọc. Chẳng hạn: (1) Hai người chiến sĩ đưa Sài về trạm quân y và ở lại trạm sáu tháng để chăm sóc thương binh, mặc dù mục đích thiêng liêng và cao cả của họ là được giết giặc lập công. (2) Thêm đi thoăn thoắt, nói thoăn thoắt đến mọi chỗ trong rừng mặc dù đây là lần đầu anh đi vào rừng này. (3) Sài cõng Thêm luồn rừng, lội suối suốt mười lăm tiếng đồng hồ tìm về đơn vị, dù Thêm đã hy sinh. Anh/ Chị có thể chọn một trong các chi tiết trên và làm rõ lý do mình có ấn tượng sâu đậm với chi tiết đó (chi tiết thể hiện vẻ đẹp của những người lính, dù không phải là lúc xông pha chiến đấu nơi chiến trường nhưng vẫn hiện lên với phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ: tinh thần trách nhiệm cao, sự hy sinh quên mình vì đồng đội, sự nhanh nhẹn, nhiệt huyết của tuổi trẻ...; chi tiết đem lại những bài học sâu sắc về giá trị sống cho cá nhân trong những hoàn cảnh khốc liệt của cuộc sống,...). Câu 5 (1,0 điểm). Có thể trình bày suy nghĩ của anh/chị về sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước qua văn bản trên theo các ý sau: (1) Trong chiến tranh, những người lính phải đối mặt với nhiều hoàn cảnh và tình huống khốc liệt: bệnh tật, thiếu thốn, bom đạn, hy sinh,... Nhưng ngay trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ của cuộc sống, ở họ vẫn sáng lên với những phẩm chất cao đẹp: quan tâm tới bạn bè đồng đội; chủ động, trách nhiệm trong công việc; hy sinh quên mình vì đồng đội,... Sức mạnh tinh thần đã đem đến cho họ một cuộc sống đẹp, đáng nhớ, giàu ý nghĩa. (2) Sức mạnh tinh thần được thể hiện từ cuộc sống của người lính sẽ được nhân lên trong những thời khắc chiến đấu nơi chiến trường để dân tộc ta có thể mạnh mẽ đi qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và có ngày vinh quang hôm nay. Sức mạnh tinh thần đó cũng chính là những phẩm chất truyền thống của con người Việt Nam không chỉ trong chiến tranh mà vẫn luôn được thể hiện trong các tình huống thử thách của cuộc sống. II. PHẦN VIẾT (6,0 điểm) Câu 1 (2,0 điểm) a. Mở đoạn: Nêu vấn đề nghị luận: Tình cảm quê hương của người xa quê lâu ngày mới được trở về được thể hiện trong bài thơ.
b. Thân đoạn: Làm rõ vấn đề nghị luận (1) Bài thơ tái hiện tình huống trở về quê sau những năm dài xa cách (khoảng cách bé đi, già mới về nhà là 50 năm). 50 năm với bao nhiêu sự thay đổi từ nhiều phía: mái tóc đã không còn xanh, đám trẻ con không còn nhận ra mình là ai, mọi thứ đã bị chia lìa bởi thời gian, và bản thân đã trở thành người xa lạ ngay trên mảnh đất quê hương. (2) Song, bất kể cuộc đời có biến đổi, vị thế có thay đổi thì quê hương vẫn là điểm xuất phát và trở về, để mở rộng vòng tay chào đón mọi người. “Hương âm” có thể hiểu là “âm thanh quê hương”, là giọng điệu đặc trưng của vùng đất mà qua bao thời kỳ thăng trầm, vẫn giữ nguyên vị quê mình. (3) Bài thơ ngắn, từ ngữ nhẹ nhàng và sâu sắc, nghệ thuật đối lập, chứa đựng bao cung bậc cảm xúc của tác giả đã đối với quê hương yêu dấu, cũng là cội nguồn cuộc sống để con người trở về dẫu bất kỳ hoàn cảnh nào. c. Kết đoạn: Khẳng định lại vấn đề nghị luận. Câu 2 (4,0 điểm) a. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận: Câu chuyện gợi cho người đọc suy nghĩ về vấn đề nhận thức về giá trị, ý nghĩa của quê hương, đất nước, xứ sở và rộng hơn là những gì thân thuộc, gần gũi, thiêng liêng đối với mỗi người. b. Thân bài b1. Giải thích: (1) Ý nghĩa rút ra từ câu chuyện: Câu chuyện là một trải nghiệm thấm thía của một người con xa xứ về quê hương, Tổ quốc. Từ chỗ háo hức với sự giàu có, văn minh của nước bạn và có phần coi nhẹ giá trị của quê hương mình (lá thư đầu tiên gửi về) đến chỗ cân bằng hơn, đúng đắn hơn trong nhận xét đánh giá, vẫn khẳng định vẻ đẹp của quê hương bạn nhưng không còn so sánh để tự ti về đất nước dân tộc mình (bức thư thứ hai) và cuối cùng là nỗi nhớ trào dâng, cảm nhận thấm thía về giá trị, vẻ đẹp của quê hương, đất nước (bức thư thứ ba). (2) Vấn đề bàn luận: nhận thức của mỗi một con người về quê hương, đất nước, xứ sở và rộng hơn là những gì thân thuộc, gần gũi, thiêng liêng. b2. Nêu suy nghĩ, quan điểm của bản thân về vấn đề nghị luận và sử dụng lý lẽ, bằng chứng để phân tích, chứng minh bảo vệ suy nghĩ, quan điểm đã nêu (1) Tầng nghĩa có thể đọc ra từ những trải nghiệm cụ thể trên có thể là con người ta khó có thể quên cái gốc của mình. Hướng về cội nguồn, hướng về các giá trị cổ truyền là một cách phát huy tinh thần dân tộc, trau dồi lòng yêu nước, yêu giống nòi,... (2) Không chỉ là tình cảm dành cho quê hương, xứ sở, Tổ quốc, câu chuyện trên còn là một bài học sâu sắc về cách ứng xử với những giá trị ổn định, truyền thống, thân thuộc và thiêng liêng với mỗi một con người. Thông thường tâm lý của con người khi tiếp nhận cái mới là sự háo hức, choáng ngợp bởi vậy dễ dẫn đến lãng quên, phản bội cái cũ. (3) Câu chuyện đã cho thấy, những cái mới, cái hiện đại, sự giàu có rất quan trọng nhưng nó không thể thay thế được những giá trị truyền thống, thiêng liêng của mỗi một con người. Bởi vậy phải biết trân trọng, gìn giữ yêu thương những giá trị tốt đẹp đó. Nỗ lực phấn đấu để đi xa, để cho những cuộc về gần, mở rộng tầm nhìn để mở sâu tình cảm, biết xứ người cũng là để hiểu hơn xứ sở quê hương. (4) Chứng minh, làm rõ quan điểm cá nhân bằng các minh chứng phù hợp. b3. Bình luận, liên hệ (1) Câu chuyện cũng là bài học về việc tích lũy vốn sống và sự trải nghiệm. Càng có nhiều trải nghiệm con người sẽ càng sống sâu sắc hơn. Bởi vậy đôi lúc giữa cái ồn ào, vội vã của cuộc sống hiện đại con người cần biết sống chậm lại để cảm nhận được giá trị của những thứ xung quanh mình. (2) Từ nhận thức của người con xa xứ, câu chuyện cũng ngầm cho thấy con người, nhất là trong thời hiện đại thường ngộ nhận và mải mê về sự hào nhoáng, đẹp đẽ, hạnh phúc ở rất xa xôi mà quên đi những giá trị bền vững, vĩnh cửu ở trong những cái thân thuộc ngay bên cạnh mình. (3) Cần chuẩn bị cho mình một hành trang đầy đủ cả về trí tuệ, tâm hồn, văn hóa để vừa tiếp thu, hòa nhập với cuộc sống ở xứ người, vừa kết nối với văn hóa, quê hương mình.
c. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề nghị luận.