Content text 2. 2025-2026 CƠ QUAN TẠO MÁU.docx
3 ức không phụ thuộc vào sự kích thích của kháng nguyên. Sau khi biệt hóa thành lympho bào T, chúng đến định cư ở các vùng phụ thuộc tuyến ức, trong các cơ quan bạch huyết ngoại vi. Ở tuyến ức không có sợi võng, không có nang bạch huyết và không có sự tạo kháng thể. 2.1. Cấu tạo Mỗi thuỳ tuyến ức được giới hạn bởi một bao liên kết mỏng và được chia nhỏ thành một số tiểu thuỳ nhu mô có hình đa diện không đều, đường kính khoảng 0,5- 2mm, nhưng các tiểu thuỳ không hoàn toàn độc lập với nhau ở vùng trung tâm. Những tế bào của nhu mô tuyến ức chủ yếu là tế bào tuyến ức (đó là lympho bào T và các tế bào ở các mức biệt hóa của tế bào lympho bào T) và những tế bào võng-biểu mô; ngoài ra còn có các đại thực bào. Ở vùng ngoại vi tuyến ức, tế bào tuyến ức tập trung dày đặc, vùng trung tâm các tiểu thuỳ thưa tế bào tuyến ức hơn, có thể nhận ra các tế bào võng-biểu mô có bào tương ưa màu acid. Vì vậy, mỗi tiểu thuỳ tuyến ức có vùng ngoại vi sẫm màu được gọi là vùng vỏ và vùng trung tâm sáng màu gọi là vùng tuỷ. 2.1.1. Vùng vỏ Đặc điểm nổi bật của vùng vỏ tuyến ức là sự tập trung dày đặc của tế bào tuyến ức. Đó là những tế bào lympho T nhỏ. Những tế bào lympho T lớn (nguyên bào lympho) chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ và có xu hướng tập trung ở lớp ngoại vi vùng vỏ của các tiểu thuỳ. Ở lớp sâu vùng vỏ chủ yếu là tế bào lympho T nhỏ. Trong vùng vỏ còn thấy nhiều lympho bào đang phân chia và cả những lympho bào đang thoái hóa. Đại thực bào là thành phần tế bào thứ yếu ở vùng vỏ. Chúng đứng rải rác trong nhu mô và có xu hướng tăng số lượng ở phần ranh giới giữa vùng vỏ và vùng tuỷ. Những tế bào võng - biểu mô ở vùng vỏ khó nhận biết vì bị các tế bào tuyến ức che lấp. Chúng có các nhánh bào tương dài và mảnh tiếp xúc với các nhánh bào tương của tế bào bên cạnh, quây lấy các tế bào tuyến ức thành từng nhóm. Những tế bào võng - biểu mô cùng với đại thực bào và các tế bào nội mô của các mao mạch vùng vỏ hình thành lỗ chắn sinh lý được gọi là hàng rào máu - tuyến ức. Những thành phần của hàng rào máu - tuyến ức lần lượt từ phía mạch máu tới Hình 2.2. Sơ đồ cấu tạo vùng vỏ tuyến ức 1. Vỏ xơ; 2. Vách ngăn; 3. Đại thực bào; 4. Lympho bào (tế bào tuyến ức); 5. Tế bào võng - biểu mô; 6. Thể liên kết.
4 nhu mô là: tế bào nội mô và màng đáy mao mạch, khoảng quanh mao mạch, lỗ đáy của tế bào võng, bào tương của tế bào võng. Hàng rào sinh lý này ngăn cản các kháng nguyên không thể tiếp xúc được với các lympho bào T đang sinh sản và biệt hóa ở vùng vỏ. 2.1.2. Vùng tuỷ Ở vùng tuỷ các tiểu thuỳ tuyến ức, mật độ tế bào tuyến ức thưa hơn ở vùng vỏ, chủ yếu là những nguyên bào lympho và những tế bào võng - biểu mô. Trong vùng tuỷ rất hiếm thấy đại thực bào, chỉ có một số ít bạch cầu có hạt. Khác với ở vùng vỏ, vùng tuỷ không có hàng rào máu-tuyến ức, các tế bào võng- biểu mô không đứng liên tục với nhau. Ở vùng tuỷ còn có những cấu trúc đặc biệt, đó là những tiểu thể Hassall. Tiểu thể Hassall có đường kính 30-150m gồm một đám những tế bào võng-biểu mô dẹt xếp đồng tâm. Những tế bào này liên kết với nhau bởi thể liên kết và trong bào tương có những xơ trung gian (quan sát được dưới kính hiển vi điện tử). Những tế bào ở vùng trung tâm tiểu thể đó bị mất nhân và giống những tế bào hóa sừng ở biểu bì (hình 2.2). 2.2. Sự thoái hóa của tuyến ức Sau tuổi dậy thì, tuyến ức bắt đầu quá trình thoái hóa sinh lý. Quá trình này biểu hiện ở sự giảm sinh sản lympho bào, vùng vỏ tuyến ức mỏng dần, một số vùng trong nhu mô bị thay thế bởi mô mỡ. Ở người trưởng thành, tuyến ức chỉ còn nặng khoảng 10-15g, là một khối mỡ trong đó rải rác có những đảo nhu mô tuyến ức gồm một số lympho bào trên nền cơ bản là các tế bào võng-biểu mô. Tuyến ức có thể thoái hóa cấp, thường được gọi là thoái hóa tai biến, gặp trong những trường hợp bệnh lý như cơ thể trải qua một stress khốc liệt, sự chiếu xạ ion, bị nhiễm độc bởi nội độc tố của vi khuẩn hoặc bị khống chế bởi một số hormon thượng thận và sinh dục… Trong những trường hợp này, thể tích tuyến ức mau chóng thu nhỏ lại, nhiều lympho bào ở vùng vỏ bị chết, những lympho bào ở vùng tuỷ chậm bị huỷ hoại hơn. Những tế bào biểu mô tuyến ức tổng hợp và chế tiết một số peptid được coi là những hormon tuyến ức. Một trong các hormon đó là thymulin. Hormon này chịu trách nhiệm xúc tác việc gắn các thụ thể trên bề mặt các lympho bào T chưa trưởng thành, là yếu tố quyết định đối với sự biệt hóa và mở rộng clon của lympho bào T. Hormon thứ hai của tuyến ức là thymopoietin. Hormon này được coi là yếu tố thúc đẩy tế bào tuyến ức biệt hóa (tuy nhiên, thymopoietin còn có những chức năng khác không liên quan trực tiếp đối với hệ miễn dịch). Một peptid tuyến ức khác là thymosin. Hormon này được xác định là sản phẩm của tế bào võng-biểu mô vùng dưới vỏ xơ tuyến ức. Thymosin là