PDF Google Drive Downloader v1.1


Report a problem

Content text A 181.112 Lể Nghĩa trong nền Đạo Đức Khổng Mạnh.pdf

Lễ Nghĩa Trong Nền Ðạo Ðức Khổng Mạnh Gs. Trần Văn Ðoàn Ðại Học Quốc Gia Ðài Loan Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia 1. Ðặt Lại Vấn Ðề - Vai Trò Của Lễ Nghĩa Abstract This paper attempts to search for an authentic understanding of the role of lễ (li) in the ethics of Vietnamese Confucianism, once biased as the cause of social backwardness by Westernized anti- Confucians. In my view, lễ expresses the ontological dimension of the Viet life-world, and is manifested in various forms of living. Since lễ is ontologically constituted, it is bound to nghĩa (yi), too close and intimate that the former would lose its existence without the support of the latter. In this sense, lễ is not restricted in the formal rites (lễ nghi); it is not defined by the rules of ceremonies and worship (nghi thức) either. It surpasses the limit of legal obligations and reveals the hidden moral conscience in our proper acts, behaviours and language. This work is divided into two main parts: the first part traces back the original meaning of lễ in the classics of Confucianism, while the second part attempts to rediscover under the surface of the Viet life-world the exact meaning of lễ-nghĩa (li-yi). Key-words: Lễ, Nghĩa, Lễ-nghĩa, Confucian morals, Viet-mores. Lễ Nghĩa Trong Nền Ðạo Ðức Khổng Mạnh - The Role of Li-yi in the Confucian Morals Ðặt Lại Vấn Ðề - Vai trò của Lễ Nghĩa Luận văn sau đây nhắm tìm hiểu vai trò của của lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới vai trò của lễ nghĩa vì nhiều lý do, trong đó có một lý do rất quan trọng, đó là vai trò của lễ nghĩa đã hòa lẫn vào trong huyết quản của người Việt. Quá sâu đậm đến độ văn hóa, cách thẩm định giá trị của người Việt không thể tách rời khỏi quan niệm lễ và nghĩa. Nhưng cũng vì gốc rễ nó đâm sâu gắn chặt vào cuộc sống, nên cái lễ cũng là một trở ngại khiến xã hội Việt không dễ tiến bộ. Sự quá trọng nghi lễ đến độ nô lệ vào hình thức của nghi mà quên đi tinh thần của lễ, đã làm xã hội đông phương nói chung, và xã hội Việt nói riêng trì trệ. Cái tính nệ nghi thức không chỉ khiến con người viễn đông thiếu suy tư và thụ động, nó còn bóp nghẹt tình cảm con người. Và đây là cái cớ khiến nhóm trí thức theo Tây phương đã kịch liệt đả phá lễ nghĩa Nho giáo. [1] Luận văn của chúng tôi không chối bỏ công lao của những người từng phá núi đắp sông, biến bãi biển thành ruộng dâu trong lãnh vực văn hóa, những bậc đại nho đã từng gây dựng nền văn hóa dân tộc. Chúng tôi cũng không phủ định những đóng góp của những người phê bình Nho giáo. Những vị sau đã nhìn ra sự nguy hại của tinh thần lệ lễ, tình trạng chậm chạp vì quá trọng hình thức và sự thiếu suy tư vì quá nô lệ vào những lễ nghi, những tập tục. Ði xa hơn, qua luận văn này, chúng tôi theo một cái nhìn khách quan, tìm cách đào sâu, tìm hiểu thêm tinh thần của lễ nghĩa. Tuy nhắm khôi phục tinh thần lễ nghĩa, chúng tôi cũng ý thức được cái ma lực của lễ, và do đó cùng lúc muốn phá bỏ huyền thoại quá lệ thuộc vào nghi lễ mà những nhà hủ nho từng khư khư ôm vào. Qua công việc khôi phục lại cái địa vị vốn có của lễ nghĩa, luận văn này tiếp tục chương trình đào bới lại

[4] Xin Tkh. Trần Văn Ðoàn, "The Concept of Dao-Yi in Viet-Nho", op. cit. Cũng xin tham khảo Trần Ðình Hượu, Ðến Hiện Ðại từ Truyền Thống (Hà Nội: Văn Hóa, 1996). Lần xuất bản thứ hai. Giáo sư Phan Ðại Doãn, môn sinh của Giáo sư Trần Ðình Hượu từng nhận định: "Môi trường xã hội Việt Nam có khác nên lý thuyết và tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc và Việt Nam phải được "điều kiện hóa." Các quan niệm hiếu, trung, nhân, lễ (cốt lõi của Nho giáo) khi vào Việt Nam thường gắn liền với nghĩa. Theo chúng tôi, trong các quan hệ họ hàng, làng xã, đất nước của người Việt đều xây dựng trên quan niệm nghĩa, trước hết là nghĩa. Nói cách khác, nghĩa là điều kiện hóa của hiếu, của trung, của nhân, của lễ. Người Việt Nam thường nói hiếu nghĩa, trung nghĩa, nhân nghĩa và lễ nghĩa, và dường như hiếu, trung, nhân, lễ phải được hiểu và ứng xử như là nghĩa. Có người cho rằng ở Nhật Bản "trung" chiếm địa vị chủ đạo thì ở Việt Nam, theo chúng tôi "nghĩa" là vị trí quan trọng hơn, nổi trội hơn". Trích từ Phan Ðại Doãn, "Một Số Ðặc Ðiểm Nho Giáo ở Việt Nam", trong Tập san Khoa Học Xã Hội Nhân Văn (Ðại Học Quốc Gia Tph HCM - Ðại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn), số 3, 1997, ctr.55-61, trích từ tr. 58.
2. Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn [5] Sáu chữ trên không có xa lạ gì với người Việt chúng ta. Chúng đã biến thành những khẩu hiệu nằm trên đầu môi ngọn luỡi của các nhà sư phạm, của các bậc phụ huynh, của nhiều vị "dân chi phụ mẫu", và đôi khi cũng là chính sách của nhà nước nữa. Chúng ta cũng không lạ lẫm gì khi mà hầu hết những tác phẩm thi ca kinh điển của những bậc đại nho đều ca tụng và nâng lễ nghĩa lên thành một đức tính, tương đương với tam tòng tứ đức, đôi khi lại còn hơn thế nữa. Nguyễn Du coi lễ như là quy tắc, trong khi Nguyễn Ðình Chiểu lấy chữ lễ làm nòng cốt của nền tư tưởng đạo đức. Trong Lục Vân Tiên, cụ đồ họ Nguyễn nhắc đi nhắc lại không biết mệt cái chữ lễ mà cụ coi như là khuôn vàng thước ngọc đo cái giá trị làm người. Nói một cách khác, nhà thi sĩ mù lòa chất phác này đồng nghĩa lễ với luân thường đạo lý, và thường thì coi lễ như là nền tảng của đạo đức. Qua câu thơ "Thôi thôi, ngồi đó chớ ra. Nàng là phận gái ta là phận trai", ta nhận thấy một cách rõ ràng là cụ đồ họ Nguyễn đã đồng hóa lễ trong việc đối xử giữa trai-gái với quy luật "nam nữ thọ thọ bất thân" của thời Hán. Thực ra, cụ đồ Chiểu đã phản ánh cái tâm thức chung coi lễ không khác chi là quy luật của người bình dân Việt: "Cá không ăn muối cá ươn - Con không giữ lễ (nghe mẹ) trăm đường con hư" mà thôi. Thế nên, "tiên học lễ, hậu học văn" đã trở thành một quy tắc tất yếu, suy diễn từ lối nhìn bình dân như vậy. Lối suy tư coi lễ là lề luật [6] có phải là lối suy tư đại biểu duy nhất của Việt Nho hay không, đây là một điểm đáng được tranh luận. Theo thiển kiến của chúng tôi, quan niệm này chỉ đúng được phần nào, bởi lẽ câu hỏi quan trọng hơn nằm ở sau, đó là, nếu lễ là quy luật, thì đó là qui luật gì? Nếu nó chỉ là pháp luật, hình luật, thì lễ chưa phản ánh được cái lễ nghĩa của người Việt, nhưng nếu lễ là quy luật sống, thì nó mới thực là lễ nghĩa. Như mọi người đều thấy, ngay từ thời thơ ấu, chúng ta đã được đào tạo phải giữ đạo nghĩa, mà đạo nghĩa thường không phải chi khác hơn là chính lễ nghĩa. Lễ phép, lễ độ, lễ nghĩa, lễ nghi, lễ phục... là những quan niệm, hay nói đúng hơn là những quy luật (codes), những cách thế (manners), những biểu tượng (expressive symbols), những chuẩn mực (criteria) đo lường con người Việt. Chúng ăn sâu vào trong tâm não, chúng nằm chặt trong mạch máu, đến độ chúng ta đồng hóa lễ với giá trị, với nền đạo đức, và với tất cả cuộc sống của người Việt. Chúng ta đánh giá một người, một phụ nữ, một quan chức, một giáo chức và ngay cả một người học sinh tùy theo hành vi lễ độ, lễ phép của họ. Ta xem họ có giữ lễ và hành vi, ngôn ngữ, cách xử thế của họ có đúng lễ hay không: cha phải ra cha, con phải ra con, thầy phải ra thầy, trò phải ra trò. [7] Chúng ta kính trọng một người nào đó cũng là vì họ giữ lễ giữ nghĩa. Chúng ta coi thường những người "vô lễ", "vô phép, vô tắc", "vô lương", những kẻ "bất nghĩa", "bất tín", "bất trung", "bất hiếu", "bất nhân", [8] những người mà ta thường đùa cợt cho là người không ra người, ngợm không ra ngợm. [9] Chú Thích: [5] Tinh thần câu này tuy vốn rút từ Lễ Ký. Nhưng trên thực tế, lối giải thích tầm quan trọng của lễ vượt khỏi văn là một lối lí giải cưỡng ép. Trong tư tưởng của đức Khổng, lễ, nhạc, văn, thi... tất cả đều có một tầm quan trọng gần như ngang nhau, bởi lẽ chúng biểu tả bản tính chân thật (tức bản thể) của con người. Trong Lễ Ký (Lễ Vận) có câu: "Nhân tính giả, thánh vương chi điền dã tu lễ dĩ canh chi" (Lễ Vận, 4:7 (12) (Bản tính con người vốn (tình cảm), thánh vương cũng vậy, nên cần phải có lễ để cải đổi). Ngoài ra trong Luận Ngữ, ta thấy cũng có những câu mang ý nghĩa tương tự, nói lên tầm quan trọng của cả văn lẫn lễ, như (LN 6:25 (Ung giã), LN 8:8 (Thái Bá), vân vân): "Tử viết, "Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất hạn hĩ phù?" (Người quân tử học rộng về văn chương, ước thúc bằng lễ, cũng khả dĩ không trái đạo chăng). Vào đầu thế kỷ 20, nhiều nhà tân học đã có một thái độ quá khích, tìm cách phá bỏ lễ nghĩa, bởi vì họ cho rằng, nghi lễ, lễ nghĩa chỉ là nhưng sản phẩm rác rưởi của phong kiến. Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) chủ trương phá đổ nghi lễ, tập tục cũng như nền đạo đức cổ truyền. Xin tkh. Bill Brugger, China: The Impact of

Related document

x
Report download errors
Report content



Download file quality is faulty:
Full name:
Email:
Comment
If you encounter an error, problem, .. or have any questions during the download process, please leave a comment below. Thank you.