Content text 1722626155-1721812498-4. Luận cứ bảo vệ đòi nợ.docx
BÀI LUẬN CỨ VỤ ÁN ĐÒI NỢ PHẦN 1 TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ KIỆN Bà L.T.K, sinh năm 1937, ngụ tại số 4 Bis N.V.C, phường C, quận M, thành phố H có quen biết với ông T.Đ.B.Q và bà N.T.X.T thường trú tại số 67 – P.V.T, phường H, quận N, thành phố H. Do có quen biết với nhau nên bà L.T.K đã cho vợ chồng B.Q, X.T mượn một khoản tiền lớn, cụ thể theo bà L.T.K trình bày như sau: - Ngày 20/11/1996 ông Q nhận : 112.000.000đ - Ngày 16/12/1996 nhận : 29.000.000đ - Ngày 30/01/1997 nhận : 25.000.000đ - Ngày 06/02/1997 nhận : 20.000.000đ - Ngày 28/02/1997 nhận : 49.000.000đ - Ngày 13/7/1996 và ngày 17/7/1996 bà T đã nhận: 100.000.000đ Tất cả những lần nhận tiền này thì theo bà L.T.K là đã thoả thuận lãi suất 3%/tháng và đều có giấy biên nhận. Trên thực tế ông Q, bà T đã trả lãi 2 lần, tổng cộng là 9.000.000đ (chín triệu đồng). Yêu cầu của bà K: - Yêu cầu ông Q – bà T trả số nợ vốn 345.000.000đ và lãi suất 1,7%/tháng tính từ tháng 4/1997 đến tháng 4/1998 (một năm tròn). - Yêu cầu phải trả một lần. Theo quan điểm cảu ông Q – Bà T: Ông Q cho rằng: các phiếu nhận tiền ngày 20/11/1996, phiếu ngày 16/2/1996, phiếu nhận tiền 30/1/1997. - Ngày 06/2/1997 số tiền 20.000.000đ - Ngày 28/2/1997 số tiền 49.000.000đ Đúng là do ông Q nhận nhưng tất cả ông Q đều đã đưa lại cho ông Th – nguyên là Giám đốc Công ty H.
Bà T cho rằng: Bà có ký giấy biên nhận tiền ngày 13/7/1996 số tiền 100.000.000đ từ bà K và bà đã giao lại cho ông P.T.Th. - Ý kiến của ông Q – bà T: Toàn bộ số tiền mà ông Q – bà T nhận từ bà K có giấy biên nhận, họ đều giao lại cho ông P.T.Th nên họ không đồng ý trả 345.000.000đ tiền vốn từ tháng 4/1997 đến tháng 4/1998, với lãi suất 1,7% tháng cho bà L.T.K như theo yêu cầu. Họ cho rằng trách nhiệm trả nợ cho bà K thuộc về ông Th. Ngày 15/3/1999 Toà án nhân dân quận 5, thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý hồ sơ khởi kiện đòi nợ theo yêu cầu của bà L.T..K – số thụ lý 44/HĐVN. PHẦN 2 LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO NGUYÊN ĐƠN: L.T.K TRONG VỤ KIỆN ĐÒI NỢ ĐỐI VỚI ÔNG T.Đ.B.Q VÀ BÀ N.X.T Kính thưa Hội đồng xét xử! Kính thưa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân! Tôi là: Luật sư N.Đ.L thuộc văn phòng luật sư P của đoàn luật sư H, có mặt tại phiên toà hôm nay theo lời mời của bà L.T.K là nguyên đơn trong vụ “kiện đòi nợ” đối với ông T.Đ.B.Q và bà N.T.X.T. Mục đích của tôi tham gia phiên toà hôm nay là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ của tôi là bà L.T.K, ngụ tại số 4 Bis N.V.C, phường C, quận M, thành phố H. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ có tại Toà án nhân dân quận M, cũng như những tài liệu, chứng cứ thu thập được từ thân chủ và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đặc biệt trong phần thẩm vấn, tranh luận tại phiên toà hôm nay với tư cách là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà L.T.K, tôi xin mạnh dạn được trình bày quan điểm của mình như sau: Thứ nhất: Công ty TNHH TM H được thành lập theo quyết định 391 ngày 13/10/1992 của ủy ban nhân dân thành phố H do ông P.T.Th làm giám đốc, Công ty H có chức năng kinh doanh, mua bán, cung ứng xuất khẩu các mặt hàng nông sản, lương thực… theo giấy phép kinh doanh của Công ty thì chúng tôi nhận thấy Công ty không có chức năng huy động vốn. Do đó, việc ông T.Đ.B.Q và bà N.T.X.T thuộc nhân viên của Công ty H cho rằng họ nhận của bà L.T.K là theo lệnh của ông P.T.Th.
Cơ sở của họ đưa ra, thiết nghĩ tiền không thể chấp nhận được, bởi không logic, không hợp lý cũng như không có cơ sở pháp luật, điều này bản thân ông P.T.Th cũng đã xác nhận khi chúng tôi được tiếp xúc trao đổi với ông. Thứ hai: Ông T.Đ.B.Q và bà N.T.X.T đã nhiều lần nhận vay tiền của bà K, điều này là có cơ sở rõ ràng, được thể hiện trong các giấy biên nhận và có chữ ký nhận đàng hoàng và tự nguyện của người nhận như: ngày 20/11/1996 ông Q nhận từ bà K 122.000.000đ và ông Q đã ký xác nhận ngày 16/12/1996 ông Q nhận 29.000.000đ với chữ ký xác nhận là B.Q và một số giấy biên nhận khác đã được thể hiện trong hồ sơ (bút lục 2, 3, 4, 5) ngày 13/7/1996 và ngày 17/7/1996 bà N.T.X.T đã ký xác nhận vay 100.000.000đ của bà K. Như vậy, việc ông Q và bà T nhận tiền của bà K là có thật, bản thân ông Q, bà T đã thừa nhận và thân chủ của tôi đã đưa ra được chứng cứ mang tính thuyết phục cao, đó là những giấy vay tiền có xác nhận của ông Q, bà T, bởi thế chúng tôi vẫn giữ nguyên ý kiến như trong đơn đã trình bày, yêu cầu HĐXX lưu ý để xem xét. Thứ ba: Những phiếu chi mà phía bị đơn cung cấp cho Toà án có trong hồ sơ tại bút lục 5, theo quan điểm thống nhất của chúng tôi là không thể chấp nhận và không coi đó là cơ sở để nói rằng ông Q – bà T đã chi trả tiền lãi cho bà K bằng phiếu chi của Công ty H. Nhìn vào phiếu chi chúng tôi thấy rất rõ ngày 09/11/1997 ở phần họ tên người nhận tiền có ghi: “Bà Năm B” (tức bà K) nhưng ở chữ ký người nhận tiền lại là X.T. Tại phiếu chi ngày 2/4/1997 ghi rõ người nhận tiền là “anh Năm”. Nhưng ở mục người nhận tiền lại không có chữ ký xác nhận của ai, hơn nữa, vịêc ghi “anh Năm” là ai ở đây thì vợ chồng Q – T cũng không biết được cụ thể như thế nào ? Từ hai phiếu thu thể hiện trong hồ sơ, qua phân tích, đánh giá chúng tôi cho rằng, đó là hai phiếu chi giả, chẳng qua ông Q – bà T muốn che dấu hành vi muốn “chiếm đoạt” của mình nên đã tạo dựng ra hai phiếu chi trên (BL 5). Không thể coi đây là phiếu chi của Công ty TNHH H bởi không có bất kỳ một chứng cứ nào xác nhận: như dấu đỏ của Công ty, hay chữ ký thủ trưởng đơn vị, người lập phiếu… Bởi những lý do trên, chúng tôi trân trọng đề nghị HĐXX bác bỏ hai phiếu chi mà ông Q – bà T đã cung cấp. Thứ tư: Việc ông Q – bà T nại ra rằng ông bà nhận tiền từ bà K là theo lệnh của ông P.T.Th và những khoản tiền đó ông bà đều giao lại cho ông Th. Về việc này chúng tôi thấy không đủ cơ sở vì không có giấy tờ, tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho lời khai của ông Q, bà T là đúng cả, nên chúng tôi không chấp nhận việc trốn tranh trách nhiệm trả nợ của ông Q, bà T. Kính thưa HĐXX !
Từ những phân tích, đánh giá của chúng tôi về chức năng hoạt động của Công ty H, về giấy tờ biên nhận tiền của ông Q, bà T, về tính không hợp lệ của phiếu chi… chúng tôi trân trọng đề nghị HĐXX áp dụng Điều 10, Điều 11, pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Áp dụng Điều 295, Điều 471 – Bộ luật dân sự để: Tuyên buộc ông T.Đ.B.Q và bà N.T.X.T có nghĩa vụ cùng trả nợ cho bà L.T.K, số tiền 415.380.000đ. Trong đó: Tiền vốn 345.000.000đ, tiền lại: 70.380.000đ với lãi suất 1,7% (trong thời gian từ 4/1994 đến 4/1998). Chúng tôi tin tưởng và hy vọng vào sự phán quyết của HĐXX. Thay mặt thân chủ và nhân danh cá nhân, tôi xin kính chúc sức khoẻ HĐXX và xin trân trọng cảm ơn HĐXX đã lắng nghe. Luật sư N.Đ.L