Content text 1727166107-54_Luận cứ bảo vệ tranh chấp chia thừa kế và tài sản chung.docx
QUAN ĐIỂM CỦA LUẬT SƯ (V/v: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn trong vụ án "Tranh chấp chia thừa kế và tài sản chung" tại phiên tòa phúc thẩm) Kính thưa Hội đồng xét xử phúc thẩm! Tôi là luật sư P.T.H.T, thuộc Văn phòng luật sư HL (Đoàn luật sư thành phố H) xin trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông N.X.T1 và bà L.T.H1 như sau: I. Tóm tắt việc giải quyết vụ án tại tòa án cấp sơ thẩm: -Tài sản mà các đương sự đang tranh chấp ở tại thôn B, xã N, huyện G, TP. H (nay là tổ 18, phường N, quận L, T.PH) có nguồn gốc của vợ chồng cụ N.Đ.M (mất 2004) và N.T.N1 (mất năm 1983). Cụ M và cụ N1 sinh được 5 người con: T1, C, L1, T5 (mất trước bố mẹ có 3 con) và anh N.Đ.H2 (liệt sĩ hy sinh không có gia đình). Ngòai ra hai cụ còn nhận anh L.V.T3 là con nuôi nhưng không làm thủ tục pháp lý mà chỉ được các cụ, anh T3 cùng họ hàng thừa nhận. -Theo Đơn khởi kiện của Nguyên đơn (ông C và ông L1) yêu cầu tòa án quận L chia thừa kế tài sản của bố mẹ theo quy định pháp luật vì cho là không có di chúc. Còn ông T1 nói cụ M có viết giấy cho ông toàn bộ tài sản. Tại sơ thẩm ông T1 xuất trình các giấy tờ thể hiện ý nguyện của cụ M đơn đề nghị ngày 29/9/2003 (BL 55), giấy ngày 10/11/2003 (BL 56). Tại phiên tòa sơ thẩm ông T1 xuất trình giấy viết tay ngày 10/9/2003. Nhưng đều không được tòa án chấp nhận là di chúc thể hiện ý nguyện của cụ M cho ông T1 tài sản. - Ngày 19/8/2005 tòa án quận L xử sơ thẩm quyết định chia di sản của cụ M và cụ N1 theo pháp luật thành 4 phần : ông T1, ông C, ông L1 và anh K (đại diện cho các con của T5). Ngoài ra phần của T1 và ông C nhiều hơn vì có công nuôi dưỡng cụ M. - Sau khi tòa án sơ thẩm sử ông T1, ông C, ông L1 và bà L.T.H1 (vợ ông T1 kháng cáo). Ông T1 kháng cáo không đồng ý chia di sản theo pháp luật vì bố mẹ khi còn sống đã cho ông quyền sử dụng đất thửa vườn tại thôn B. Còn ngôi nhà ngói và tài sản trên đất là của vợ chồng ông (cụ M có để lại nhiều văn bản nói về việc cho ông tòan bộ tài sản). Còn ông C cũng được bố mẹ cho đất và đã bán. Ông T1 đề nghị tòa án căn cứ vào các giấy tờ của cụ M để lại giải quyết bác yêu cầu kiện của các Nguyên đơn.
Bà H1 kháng cáo: đề nghị chấp nhận yêu cầu của ông T1. Vì bố mẹ chồng đã cho vợ chồng bà từ khi các cụ còn sống nên bà đã đứng tên trong sổ địa chính từ năm 1993 (khi đó cụ M đang còn sống) và các ông C, L1 không có ý kiến gì. Bà H1 đề nghị tòa án xác định công sức của bà tôn tạo duy trì phát triển khối tài sản (vì từ năm 1983 sau khi cụ N1 mất thì chỉ có bà ở tại đây còn cụ M về ở tại ngôi nhà ông T1 mua ở thôn T vì ở đây gần sông Đ nên luôn bị ngập lụt, xói lở hàng năm). Ông C và ông L1 kháng cáo đề nghị tòa án phúc thẩm xét công sức của ông L1 cũng có công chăm sóc bố. II. Cung cấp chứng cứ: Trong giai đoạn phúc thẩm ông T1 và bà H1 đã xuất trình nhiều chứng cứ mới gồm: + Tài liệu chứng minh ông T1 được cụ M cho tòan bộ tài sản: 4 giấy tờ thể hiện di chúc của cụ M cho ông T1 tòan bộ tài sản còn không cho ông C ông L1 vì bất hiếu với bố mẹ. Trong đó có 1 bản di chúc do ông H.V.N3 viết hộ. Ông T1 đề nghị tòa án căn cứ vào các di chúc do cụ M tự viết và điểm chỉ để giải quyết còn di chúc nhờ người viết hộ để tham khảo vì tất cả các di chúc đều thể hiện cùng 1 nội dung. + Các tài liệu chứng minh nhà cửa tài sản trên đất là của vợ chồng ông T1 chứ không phải là của cụ M, cụ N1 gồm: - Giấy xác nhận của ông N.V.K ở B xác nhận bố con ông đã xây dựng ngôi nhà ngói trên đất vào năm 1970 cho bà H1. - Xác nhận của ông L.V.V người đã được bà H1 thuê đổ đất vào vườn các năm 1995, 1997, 1999 (tại phiên tòa sơ thẩm bà H1 cũng khai thuê đổ đất nhưng tại phúc thẩm mới xuất trình được chứng cứ) - Xác nhận của bà N.T.N2 được bà H1 thuê làm vườn, trồng cây cối trong vườn. - Xác nhận của bà N.T.B em ruột cụ N.Đ.M về việc vợ chồng cụ M cho ông T1 nhà đất. Trước ngày xét xử (ngày 19/1/2006) ông T1 đã có đơn xin hoãn phiên tòa để yêu cầu tòa án tiến hành các thủ tục thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS để làm căn cứ giải quyết vụ án: - Trưng cầu giám định: Vì theo khoản 3 điều 90 BLTTDS (nay là Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015) quyết định trưng cầu giám định chưa đầy đủ bất lợi cho ông T1. - Xác minh tại các nhân chứng: N.V.K, L.V.V, N.T.N2 theo quy định tại điều 87. (nay là Điều 99 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015).
- Đối chất với các nguyên đơn về các di chúc của cụ M theo quy định tại điều 88. (nay là Điều 100 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015) - Yêu cầu làm rõ chứng cứ bị tố cáo là giả mạo nhưng chưa có trả lời cho đương sự ( cụ thể biên bản xác minh ngày 14/7/2003 của ông N.N.Đ -cán bộ tư pháp của xã N là giả mạo không đúng với ý nguyện của cụ M). Tại phần thủ tục, HĐXX cho rằng căn cứ khỏan 2 điều 85 BLTTDS (nay là Điều 97 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015) các chứng cứ mà ông T1 mới xuất trình tòa án có thể đi xác minh hoặc có thể không. Việc tòa án không tiến hành điều tra xác minh các tình tiết mới phát sinh đã không đảm bảo căn cứ để giải quyết yêu cầu kháng cáo của ông T1 và bà H1 theo quy định của BLTTDS. Tuy nhiên vì các tài liệu này phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ nên luật sư đề nghị tòa án chấp nhận giá trị là chứng cứ để giải quyết vụ án. III. Các căn cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1 và bà H1. Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và các tài liệu do ông T1 bà H1 xuất trình trong giai đoạn phúc thẩm để chứng minh căn cứ kháng cáo, sau khi nghe thẩm vấn trực tiếp tại phiên tòa đánh giá về các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, quan điểm của luật sư là có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo bác yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn. Việc bản án sơ thẩm chia tài sản là nhà đất tại thôn B cho 4 người con của cụ M là trái với quy định pháp luật và không phù hợp với các tình tiết khách quan có trong hồ sơ vụ án. 3.1. Đối với phần di sản của cụ M (một nửa tài sản tại thôn B): Tại trang 4 bản án sơ thẩm nhận định như sau: về di chúc: Không có căn cứ xác định tờ giấy do cụ M viết ngày 10/9/2003 do ông T1 xuất trình tại phiên tòa là di chúc thể hiện ý nguyện của cụ M. Do đó di sản của cụ M sẽ được chia theo luật. Bản án sơ thẩm còn căn cứ vào tài liệu mà UBND phường N cung cấp đó là Biên bản xác minh ngày 14/7/2003 do ông N.N.Đ lập ghi nguyện vọng của cụ M là :"Tài sản của cụ để lại thì con nào cũng là con cháu ai cũng được hưởng hết". Quyết định của bản án sơ thẩm chia phần di sản của cụ M là không phù hợp với các tình tiết có trong hồ sơ vụ án cụ thể: -Cụ M mất năm 2004 có để lại nhiều văn bản mà bản chất là các di chúc thể hiện ý nguyện của cụ M để lại tòan bộ tài sản cho ông T1 còn không cho ông C ông L1 vì hỗn láo và bất hiếu với bố mẹ. Ngay từ sơ thẩm ông T1 đều khai "cụ M mất đi có để lại di chúc phân chia tài sản cho các con" sau này vì để giữ tình cảm "nên gia đình mới thống nhất chia lại đất" (Biên bản ghi lời khai đối chất ngày 14/4/2005 -BL 63,64). Tại phiên tòa sơ thẩm ghi nhận: khi chủ tọa
hỏi ông T1: " Ông có giấy tờ gì để chứng minh việc cụ M cho ông đất không? Ông T1 xuất trình bản gốc văn bản do cụ M viết ngày 10/9/2003 và khẳng định chữ viết trong giấy là do bố tôi viết". Các văn bản của cụ M có trong hồ sơ thể hiện ý nguyện của cụ M cho ông T1 tài sản gồm: * Giấy viết tay ngày 2/11/2002 do cụ M tự tay viết và ký tên (xuất trình tại cấp phúc thẩm) Nội dung: Tôi N.Đ.M Vợ N.T.N1 chết năm 1983 Bố mẹ liệt sĩ. Tôi ở với thằng T1 từ năm 1983 đến nay Nhà đất ở thôn B một tôi cho con trai trưởng là N.X.T1. Thằng C thằng L1 là con trai chúng nó bất hiếu với bố mẹ tôi không cho. Đề nghị ban chính quyền thôn B một, ủy ban nhân dân xã N chứng giám cho tôi. Ngày 2-11-2002 Ký tên M N.Đ.M. * Gíây viết tay ngày 2/12/2002 (do cụ M tự tay viết, ký tên và điểm chỉ) (xuất trình tại cấp phúc thẩm) Nội dung: Nhà đất ở B một tôi cho ông T1 là con trai trưởng. 2-12-2002 Ký tên M